Bình đẳng Thế vận hội dành cho người khuyết tật

Mối liên hệ với Thế vận hội Olympic

Biểu tượng Paralympic 2012 tại giao lộ Oxford CircusAnh.

Năm 2001 Ủy ban Olympic Quốc tế (IOC) và Ủy ban Paralympic quốc tế (IPC) đã ký một thỏa thuận đảm bảo rằng các thành phố chủ nhà sẽ nhận nhiệm vụ giao ước trên giấy tờ là quản lý cả Olympic và Paralympic. Thoả thuận này vẫn có hiệu lực cho đến khi Thế vận hội Mùa hè 2012.[10] Thỏa thuận sẽ được mở rộng cho Thế vận hội mùa Đông 2014 và Olympic mùa hè 2016.[28]

Ủy ban Olympic Quốc tế đã viết cam kết trong Hiến chương là cho phép mọi người đều có quyền tham gia thi đấu bình đẳng. Hiến chương nêu rõ:[29]

Luyện tập thể thao là quyền của con người. Mỗi cá nhân phải có khả năng thực hành thể thao mà không có bất cứ sự phân biệt nào theo tinh thần Olympic. Điều này đòi hỏi sự hiểu biết lẫn nhau với tinh thần hữu nghị, đoàn kết và công bằng.... Mọi hình thức phân biệt đối xử đối với một quốc gia hoặc một con người dựa trên cơ sở chủng tộc, tôn giáo, chính trị, giới tính hoặc khía cạnh nào khác đều không phù hợp với Phong trào Olympic.

Trong khi đó, Hiến chương không nhắc đến việc phân biệt đối xử đặc biệt liên quan đến người khuyết tật. Điều này cho thấy có thể sự phân biệt đối xử về khả năng của người khuyết tật có xu hướng đi ngược lại lại những lý tưởng của Hiến chương Olympic và Ủy ban Olympic Quốc tế.[30] Trong Hiến chương Paralympic nghiêm cấm việc phân biệt đối xử trên cơ sở chính trị, tôn giáo, khuyết tật, kinh tế, giới tính, khuynh hướng tình dục hoặc những lý do chủng tộc.[31]

Chủ tịch ban tổ chức Luân Đôn, Lord Coe, đã nói về Paralympic Mùa hè 2012 và Olympic Mùa hè 2012 ở Luân Đôn rằng:

Chúng tôi muốn thay đổi thái độ của công chúng đối với người khuyết tật, tôn vinh sự tuyệt vời của thể thao Paralympic, đồng thời từ đầu đã trân trọng quan điểm rằng cả hai sự kiện Thế vận hội Olympic và Paralympic là một thể thống nhất.

[32]

Vận động viên Paralympic tại Olympic

Oscar Pistorius trên vòng đua vào ngày 8 tháng 7 năm 2007. Anh sử dụng hai chân giả để tham gia thi đấu.

Các vận động viên Paralympic tìm kiếm cơ hội bình đẳng để tranh tài tại Thế vận hội Olympic. Tiền lệ này đã được Neroli Fairhall, một cung thủ Paralympic từ New Zealand, thiết lập nên. Neroli đã thi đấu tại Olympic mùa hè 1984 tại Los Angeles.[1] Năm 2008, Oscar Pistorius, một vận động viên môn chạy nước rút đến từ Nam Phi đã cố gắng để hội đủ tư cách tham dự Thế vận hội Olympic mùa hè 2008. Pistorius bị cụt cả hai chân từ đầu gối trở xuống và tham gia cuộc đua với hai thanh thiết bị sợi carbon bổ trợ. Anh người giữ kỉ lục ở nội dung chạy cự ly 100, 200, và 400 mét tại Paralympic. Năm 2007, Pistorius thi đấu tại vòng đua quốc tế dành cho người không tàn tật, sau đó Liên đoàn Điền kinh Quốc tế (International Association of Athletics Federations, viết tắt IAAF) đã cấm sử dụng bất kỳ thiết bị kỹ thuật có kèm theo "... lò xo, bánh xe hoặc bất kỳ yếu tố khác có thể đem lại cho người dùng lợi thế so với những vận động viên không sử dụng thiết bị." Điều mà các vận động viên và Liên đoàn quan tâm là thiết bị hỗ trợ của Pistorius đem lại cho anh một lợi thế không công bằng. Liên đoàn sau đó đã phán quyết rằng Pistorius không đủ điều kiện tham gia Olympic Mùa hè 2008.[33] Tòa án Trọng tài Thể thao (CAS) bác bỏ phán quyết của Liên đoàn vì đã không cung cấp đầy đủ bằng chứng khoa học chứng minh những chân giả của Pistorius sẽ đem lại cho anh lợi thế không thích đáng. Do đó, nếu Pistorius đã vượt qua vòng loại của Olympic, anh sẽ được phép tham gia thi đấu.[34] Cơ hội tốt nhất của anh để hội đủ điều kiện tham gia là ở vòng đua cự ly 400 mét. Pistorius thất bại vòng loại Olympic với khoảng cách 0,7 giây. Anh đã thi đấu tại Paralympic Mùa hè 2008 và giành được huy chương vàng ở cự ly 100, 200 và 400 mét chạy nước rút.[35]

Vận động viên không khuyết tật cũng có thể tham gia tại Paralympic: người hướng dẫn thị giác cùng vận động viên khiếm thị là một phần gần gũi và thiết yếu trong cuộc thi. Vận động viên khiếm thị và người hướng dẫn được xem như một đội, và cả hai đều là ứng cử viên giành huy chương.[36]

Kinh phí trợ cấp

Amy Purdy (bị cưa 2 chân năm 19 tuổi) trong một vũ điệu với một robot tại Lễ khai mạc Thế vận hội dành cho người khuyết tật Mùa hè 2016 tại Rio de Janeiro.

Đã có những lời chỉ trích vì sự bất bình đẳng trong kinh phí trợ cấp cho vận động viên Paralympic so với vận động viên Olympic. Một ví dụ về những lời chỉ trích này là một vụ kiện tụng pháp luật vào năm 2003 của ba vận động viên Paralympic là Tony Iniguez, Scot Hollonbeck và Jacob Heilveil từ Hoa Kỳ.[37] Họ khẳng định Ủy ban Olympic Hoa Kỳ (USOC), trong đó bao gồm các Ủy ban Paralympic Quốc gia, đã cung cấp không đầy đủ kinh phí cho các vận động viên Paralympic Hoa Kỳ. Iniguez trích dẫn một thực tế là USOC thực hiện quyền lợi chăm sóc sức khỏe cho các vận động viên Paralympic với tỉ lệ nhỏ hơn, USOC cung cấp tiền sinh hoạt phí đào tạo hàng quý ít hơn và chi trả giải thưởng tài chính cho các huy chương giành được tại Paralympic thấp hơn. Những người gửi đơn xem đây là một bất lợi cho các vận động viên Paralympic Hoa Kỳ, vì các quốc gia như CanadaAnh hỗ trợ các vận Paralympic và Olympic hầu như ngang nhau. USOC không phủ nhận sự khác biệt trong kinh phí và đưa ra lý luận rằng điều này dựa trên thực tế là sư kiện thể thao này đã không nhận được bất kỳ hỗ trợ tài chính nào từ phía chính phủ. Kết quả là việc tổ chức đã phải dựa vào doanh thu tạo ra thông qua sự phát tán phương tiện truyền thông về các vận động viên tham gia. Những thành công mà các vận động viên Olympic đem lại về doanh thu qua phương tiện truyền thông lớn hơn nhiều so với các vận động viên Paralympic. Vụ kiện đã được tòa án cấp thấp xét xử và quyết định rằng USOC có quyền phân bổ tài chính cho các vận động viên ở những mức độ khác nhau. Vụ kiện được kháng cáo lên Tòa án Tối cao,[38] và vào ngày 6 tháng 9 năm 2008 tòa thông báo sẽ không giải quyết kháng cáo. Tuy nhiên, trong thời gian vụ kiện kéo dài (từ năm 2003 đến năm 2008), các khoản tài trợ USOC cung cấp đã tăng gần ba lần. Trong năm 2008 đã có 11,4 triệu USD được chi cho các vận động viên Paralympic so với năm 2004 là 3 triệu USD.[37]

Mức độ truyền thông

Đội tuyển Olympic và Paralympic Hoa Kỳ 2008 tại Nhà trắng

Thế vận hội Olympic đã và đang trải qua sự phát triển to lớn tầm ảnh hưởng thông qua các loại phương tiện truyền thông toàn cầu kể từ Thế vận hội Mùa hè 1984, trong khi đó, Thế vận hội Paralympic đã không thể duy trì vững chắc việc phát sóng và lan truyền của phương tiện truyền thông quốc tế.

Các đài truyền hình bắt đầu phát sóng Thế vận hội Paralympic vào năm 1976, nhưng phạm vi phát sóng vốn có từ sớm này này đã bị hạn chế thông qua việc phát sóng gián tiếp những bản thu lại, điều này diễn ra tùy theo quốc gia hoặc tùy vùng. Đã từng có quá trình phát sóng trực tiếp 45 giờ tại Paralympic Mùa hè 1992 nhưng chỉ ở châu Âu. Những quốc gia khác phát sóng bản thu lại trong suốt thời gian diễn ra sự kiện. Không có những cải thiện có ý nghĩa trong phạm vi phát sóng xảy ra cho đến Paralympic Mùa hè 2000Sydney.[39]

Thế vận hội Paralympic 2000 tiêu biểu cho sự gia tăng đáng kể về độ lan truyền qua phương tiện truyền thông toàn cầu đối với bản thân sự kiện. Ban tổ chức Paralympic Sydney (SPOC) và All Media Sport (AMS) đã đạt thỏa thuận trong việc phát sóng Thế vận hội Paralympic trên toàn thế giới. Thỏa thuận đã đạt được với châu Á, Nam Mỹ và các công ty truyền hình châu Âu trong việc phát tán thông tin qua phương tiện truyền thông ở càng nhiều thị trường càng tốt. Sự kiện cũng được đã được phát sóng trên trang web lần đầu tiên. Do những hiệu quả tích cực mà Paralympic Sydney đem lại, lượng khán giả toàn cầu ước tính đạt đến 300 triệu người.[40] Một vấn đề quan trọng khác là các nhà tổ chức đã không phải chi trả cho mạng lưới truyền hình trong việc phát sóng sự kiện như đã từng phải làm vào kì 1992 và 1996.[41] Mặc dù những tiến bộ về mối quan tâm của giới truyền thông lâu dài này là do thực hiện theo yêu cầu, một vấn đề đã từng diễn ra ở Anh trong việc phát sóng Paralympic Mùa đông 2010.

Talan Skeels-Piggins ở bộ môn trượt tuyết đổ đèo trong Paralympic 2010.

Đài BBC đã bị chỉ trích về việc phát sóng quá ít ỏi chương trình Paralympic Mùa đông 2010 so với Olympic Mùa đông 2010. BBC thông báo sẽ đăng tải một số nội dung trên trang web của đài và phát sóng một chương trình tóm gọn những điểm nổi bật nhất với thời lượng một giờ sau khi sự kiện kết thúc. Riêng đối với Olympic Mùa đông, BBC đã phát sóng 160 giờ. Lời giải thích từ BBC là do ngân sách hạn chế và do "yếu tố múi giờ".[42] Việc cắt giảm vẫn được tiến hành bất chấp sự gia tăng tỉ lệ xem của Paralympic Mùa hè 2008 diễn ra trước đó, với lượng khán giả theo dõi ở nước Anh chiếm 23% dân số.[42] Tại Na Uy, đài phát thành truyền hình Na Uy (NRK) đã phát sóng 30 giờ trực tiếp Paralympic Mùa đông 2010. Kênh thể thao của NRK (NRK-sport) đã phê phán bộ phận sản xuất truyền hình từ Vancouver và đã đưa vấn đề này lên Liên hiệp Phát sóng châu Âu (EBU). Trong đó gồm các vấn đề như công chiếu bộ môn phối hợp bắn súng và trượt tuyết băng đồng (biathlon) mà không thấy cảnh bắn súng và chiếu các vận động viên môn trượt tuyết băng đồng từ khoảng cách xa. Điều này gây khó khăn cho việc theo dõi quá trình thi đấu. NRK hài lòng nhiều hơn đối với việc quay và chiếu các cuộc thi ở bộ môn khúc côn cầu trên băng (ice sledge hockey) và đua xe lăn với chất lượng theo NHK đánh giá là tương đương với Thế vận hội Olympic.[43]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Thế vận hội dành cho người khuyết tật http://www.sports.org.au/sports/athletics.html http://www.cbc.ca/olympics/story/2008/09/02/f-para... http://www.canada2010.gc.ca/101/histor/010203-eng.... http://www.paralympiceducation.ca/Content/History/... http://www.canada.com/vancouversun/news/westcoastn... http://sportsillustrated.cnn.com/more/news/2002/03... http://sportsillustrated.cnn.com/paralympics/news/... http://sportsillustrated.cnn.com/paralympics/news/... http://www.deaflympics.com/news/publishedarticles.... http://www.facebook.com/ParalympicSport.TV